ĐÁNH GIÁ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TÌNH DỤC Ở NAM GIỚI

Nguồn:       Nội dung: HueCREI       Lượt đọc: 317

Rối loạn chức năng tình dục ở nam giới là vấn đề rất được quan tâm bởi sự ảnh hưởng tiêu cực của nó đến chất lượng cuộc sống cũng như hạnh phúc gia đình và lứa đôi. Khác với rối loạn chức năng tình dục ở phụ nữ, rối loạn chức năng tình dục ở nam giới có liên quan đến hai tình trạng khá cụ thể là rối loạn chức năng cương dương và xuất tinh sớm. Do vậy, các nhà thực hành lâm sàng đã phát triển bộ câu hỏi tự đánh giá nhằm phát hiện và đo lường mức độ từng loại rối loạn. Hai bộ câu hỏi đã được chuẩn hóa thường được sử dụng là: Chỉ số quốc tế về chức năng cương dương(International Index of Erectile Function – IIEF) và Bộ câu hỏi chẩn đoán xuất tinh sớm (Premature Ejaculation Diagnostic tool – PEDT). Đây được xem là phương pháp rất hữu hiệu bởi những ưu điểm mà nó mang lại như thuận tiện, người trả lời có đủ thời gian cần thiết để suy nghĩ từ đó đưa ra được câu trả lời thích hợp, đặc biệt là tạo không gian riêng tư đem lại cảm giác thoải mái cho người trả lời.

 

1 - Chỉ số quốc tế về chức năng cương dương

International Index of Erectile Function - IIEF

Rối loạn cương dương đặc trưng bởi tình trạng dương vật không cương hoặc không có khả năng duy trì sự cương cứng đủ để quan hệ tình dục hoặc cả hai. Bộ câu hỏi Chỉ số quốc tế về chức năng cương dương (International Index of Erectile Function – IIEF) được Rosen và cộng sự xây dựng vào năm 1997, sau đó tiếp tục phát triển thêm 2 công trình nghiên cứu công bố qua 3 bài báo từ năm 1999 đến 2000 [1-4]. Quá trình xây dựng và chuẩn hóa được tiến hành rất chặt chẽ, công phu và chuyên nghiệp. Bên cạnh việc chẩn đoán mức độ nghiêm trọng của rối loạn cương dương, IIEF còn là công cụ khách quan nhằm đánh giá mức độ đáp ứng của quá trình điều trị.

Về nội dung, bảng IIEF gồm 15 câu hỏi đề cập đến năm lĩnh vực: chức năng cương của dương vật (6 câu), sự thõa mãn khi quan hệ tình dục (3 câu), cực khoái (2 câu), sự ham muốn tình dục (2 câu) và sự thoã mãn tình dục toàn diện(2 câu). Mỗi mục đưa ra 5 câu trả lời từ 1-5 theo mức độ tốt dần, có điểm 0 ở một số câu hỏi dành cho người không hoạt động tình dục trong khoảng thời gian đánh giá khoảng 4 tuần. Điểm số của mỗi mục được tính bằng cách cộng điểm của từng câu hỏi thuộc lĩnh vực đó. Tổng điểm của IIEF chính là tổng điểm của 5 mục, từ 5 đến 75 điểm. Trong đó, chỉ có lĩnh vực về chức năng cương dương xây dựng được ngưỡng để chẩn đoán rối loạn cương khi số điểm ≤ 25 với các mức độ rối loạn khác nhau: mức độ nhẹ (22-25), nhẹ - trung bình (17-21), trung bình (11-16) và mức độ nặng (≤ 10). Chính vì vậy, điểm số của chức năng cương dương là giá trị hợp lệ để so sánh giữa các nhóm đối tượng, đánh giá tỷ lệ cũng như khảo sát các yếu tố liên quan đến rối loạn cương dương trong các nghiên cứu, bên cạnh đó còn cho thấy sự khác biệt trước và sau khi điều trị. Bốn lĩnh vực còn lại cũng được xây dựng để góp phần phản ánh các tác động khác của rối loạn cương dương. Có thể thấy tổng điểm IIEF có giá trị hơn trong đánh giá mức độ rối loạn cương dương so với điểm số của chỉ riêng lĩnh vực chức năng cương. Tuy nhiên, tổng điểm IIEF vẫn chưa có ngưỡng cụ thể để chẩn đoán rối loạn cương dương. 

Bộ câu hỏi IIEF được xem là “tiêu chuẩn vàng” nhằm đo lường và đánh giá mức độ rối loạn cương dương, được sử dụng rất rộng rãi trên toàn thế giới, đặc biệt là trong các thử nghiệm lâm sàng đa quốc gia. Người ta ước tính tỷ lệ rối loạn cương dương ở các quốc gia có sự khác biệt, như khoảng 19 – 25% ở Mỹ, Đức, Ý, Anh và 12 – 13% ở Pháp và Tây Ban Nha [5]. Trong nghiên cứu về lão hóa nam giới được thực hiện tại Massachusetts, có đến 52% nam giới cho biết họ bị rối loạn cương dương dù ở một mức độ nào đó [6]. Tính đến năm 2014, IIEF đã được trích dẫn cho khoảng 2700 bài báo và các nghiên cứu thực tế lâm sàng [7], điều đó đã cho thấy giá trị ứng dụng của bộ câu hỏi có tính ứng dụng cao.

Điểm cần lưu ý

Tương tự như bộ câu hỏi về rối loạn chức năng tình dục nữ (FSFI), khi sử dụng bộ câu hỏi IIEF cũng cần chú ý đến trường hợp đối tượng không hoạt động tình dục trong 4 tuần vừa qua. Một số câu hỏi trong bảng IIEF có đưa ra lựa chọn “0” cho những người không tham gia hoạt động tình dục trong thời gian này. Tuy nhiên khi xử lí thống kê rất có thể làm cho kết quả bị sai lệnh. Điều này cần được khắc phục bằng một số giải pháp như: loại đối tượng này ra khỏi nghiên cứu hoặc có thể thay thế điểm 0 bằng điểm trung bình của toàn bộ dữ liệu.

 

2 - Bộ câu hỏi chấn đoán xuất tinh sớm

Premature Ejaculation Diagnostic tool – PEDT

Xuất tinh sớm được định nghĩa là tình trạng xuất tinh xảy ra sớm hơn sự mong muốn của bản thân, ngay sau khi dương vật thâm nhập vào âm đạo và có sự kéo dài dai dẳng, lặp lại suốt đời. Bộ câu hỏi chẩn đoán xuất tinh sớm – PEDT được Symonds và cộng sự xây dựng vào năm 2007 nhằm đánh giá sức khỏe tình dục nam giới về xuất tinh sớm, sau đó phát triển thêm một nghiên cứu công bố cùng năm để tiếp tục củng cố giá trị hiệu lực và độ tin cậy của PEDT [8], [9].

Bảng câu hỏi PEDT gồm 5 câu hỏi đánh giá về khả năng kiểm soát xuất tinh, sự kích thích tối thiểu, mức độ ảnh hưởng của xuất tinh sớm đến bản thân và đến mối quan hệ với bạn tình. Ngưỡng chẩn đoán xuất tinh sớm cũng đã được xác định dựa vào tổng điểm của 5 câu hỏi, với số điểm 9 - 10 được cho là có thể mắc xuất tinh sớm và chắc chắn xuất tinh sớm nếu số điểm ≥ 11. Ngoài ra, ngưỡng chẩn đoán của PEDT còn dựa vào thời gian trì hoãn xuất tinh trong âm đạo (Intravaginal Ejaculatory Latency Time - IELT) dưới hoặc bằng 2 phút. Khi so sánh ngưỡng chẩn đoán của PEDT với đánh giá lâm sàng từ các chuyên gia đầu ngành - là những người có nhiều năm kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị xuất tinh sớm cho thấy sự tương quan khá cao (hệ số tương quan đạt 0,8 đối với ngưỡng chẩn đoán ≥ 11 điểm và 0,73 với ngưỡng chẩn đoán ≥ 9 điểm) [10].

Cho đến nay, có thể tìm thấy gần 100 nghiên cứu trên y văn có sử dụng bảng câu hỏi PEDT tại nhiều vùng địa lý, nhiều đối tượng khác nhau và chủ yếu để chẩn đoán tỷ lệ xuất tinh sớm trong các nghiên cứu dịch tễ học. Trong một bài phân tích tổng quan gần đây nhất của Althof và cộng sự về các bộ câu hỏi đánh giá xuất tinh, cho thấy PEDT là công cụ thường được sử dụng nhất [11]. Tương tự như bộ câu hỏi về chỉ số quốc tế về chức năng cương dương - IIEF, PEDT cũng đánh giá chức năng tình dục trong 4 tuần vừa qua nên cũng sẽ có điểm đáng lưu ý dành cho đối tượng không quan hệ tình dục trong thời gian nghiên cứu. 

Kết luận

Cả hai bộ câu hỏi trên hướng tới việc đánh giá rối loạn chức năng tình dục ở nam giới  với nhiều ưu điểm: ngắn gọn, dễ hiểu, dễ chấp nhận, đạt tiêu chuẩn của trắc nghiệm tâm lý và đã dần được củng cố mạnh mẽ về độ tin cậy cũng như hiệu lực đo lường nhờ vào quá trình phát triển nhiều phiên bản mới với nhiều ngôn ngữ ở các vùng lãnh thổ khác nhau trên toàn cầu. Tuy nhiên, các chuyên gia khi sử dụng bộ câu hỏi để đo lường cần hiểu rõ chúng, làm sáng tỏ những tranh luận từ y văn, lưu tâm đến những hạn chế và tìm hướng khắc phục nếu có để từ đó ứng dụng vào nghiên cứu và thực hành lâm sàng phù hợp.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Cappelleri, Joseph C., et al. (1999), "Diagnostic evaluation of the erectile function domain of the International Index of Erectile Function", Urology. 54(2), pp. 346-351.
  2. Cappelleri, Joseph C., et al. (1999), "Some Developments on the International Index of Erectile Function (IIEF)", Therapeutic Innovation & Regulatory Science. 33(1), pp. 179-190.
  3. Cappelleri, Joseph C., et al. (2000), "Relationship between patient self-assessment of erectile function and the erectile function domain of the international index of erectile function", Urology. 56(3), pp. 477-481.
  4. Rosen, Raymond C., et al. (1997), "The international index of erectile function (IIEF): a multidimensional scale for assessment of erectile dysfunction", Urology. 49(6), pp. 822-830.
  5. Shabsigh R, Perelman MA, Laumann EO, Lockhart DC. Drivers and barriers to seeking treatment for erectile dysfunction: A comparison of six countries. BJU Int 2004;94:1055–65.
  6. Feldman HA, Goldstein I, Hatzichristou DG, Krane RJ, McKinlay JB. Impotence and its medical and psychosocial correlates: Results of the Massa- chusetts Male Aging Study. J Urol 1994;151:54– 61.
  7. Forbes, Miriam K., Baillie, Andrew J., and Schniering, Carolyn A. (2014), "Critical Flaws in the Female Sexual Function Index and the International Index of Erectile Function", The Journal of Sex Research. 51(5), pp. 485-491.
  8. Symonds, T., et al. (2007), "Further evidence of the reliability and validity of the premature ejaculation diagnostic tool", International Journal of Impotence Research. 19(5), pp. 521-525.
  9. Symonds, T., et al. (2007), "Development and Validation of a Premature Ejaculation Diagnostic Tool", European Urology. 52(2), pp. 565-573.
  10. Symonds, T., et al. (2007), "Further evidence of the reliability and validity of the premature ejaculation diagnostic tool", International Journal of Impotence Research. 19(5), pp. 521-525.
  11. Althof, Stanley E. (2016), "Patient reported outcomes in the assessment of premature ejaculation", Translational Andrology and Urology. 5(4), pp. 470-474.

CÁC THÔNG TIN CÙNG CHỦ ĐỀ





TRUNG TÂM NỘI TIẾT SINH SẢN VÀ VÔ SINH

Bệnh viện Trường Đại học Y-Dược Huế
41 Nguyễn Huệ, TP Huế, Việt nam
0234.626.9696
0989.228.779
yhocsinhsan.hue@gmail.com

KẾT NỐI VỚI CHÚNG TÔI