GIÁ TRỊ BỘ CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC NAM GIỚI XUẤT TINH SỚM – RỐI LOẠN CƯƠNG DƯƠNG

Nguồn:       Nội dung: HueCREI       Lượt đọc: 322

Lucy Abraham, MSc. C. Psychol., Tara Symonds, PhD, and Mark F.Morris, MSc

Global Outcomes Research, Pfizer Ltd, Sandwich, UK; Clinical Statistics, Pfizer Ltd, Sandwich, UK.

TÓM TẮT

Giới thiệuBộ câu hỏi là công cụ cần thiết để đánh giá một cách có hệ thống tác động của rối lọan chức năng tình dục đến chất lượng cuộc sống ở nam giới.

Mục tiêu: Thẩm định bộ câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống tình dục ở nam giới có xuất tinh sớm và rối loạn cương dương.

Phương pháp: Đối tượng chính được đánh giá trong nghiên cứu này là nam giới tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng để điều trị tình trạng xuất tinh sớm (PE - Premature Ejaculation) hoặc rối lọan cương dương (ED - Erectile Dysfunction). Chẩn đoán xuất tinh sớm khi thời điểm xuất tinh dưới 2 phút kể từ sau khi dương vật thâm nhập vào âm đạo trong hơn 70% số lần quan hệ tình dục. Chẩn đoán rối loạn cương dương khi tổng điểm chỉ số quốc tế về chức năng cương dương IIEF (International Index of Erectile Function) > 21. Tiến hành các trắc nghiệm đo lường tâm lý để xác nhận các nhóm nam giới khác có tình trạng xuất tinh sớm.

Kết quả chính cần khảo sátĐánh giá được tính nhất quán, tính hiệu lực, độ tin cậy của việc đánh giá lặp lại bằng bộ câu hỏi của các nhóm bệnh lý.

Kết quả: Phiên bản gồm 11 câu hỏi về chất lượng cuộc sống tình dục nam giới (SQoL-M) được tạo ra sau khi phân tích các yếu tố ở nam giới xuất tinh sớm hoặc rối loạn cương dương. Trắc nghiệm đo lường tâm lý cho thấy không có sự trùng lặp giữa các mục câu hỏi và hệ số tương quan biến – tổng khá tốt.

Kết luận: bộ câu hỏi SQoL-M là một công cụ hữu ích để đánh giá chất lượng cuộc sống (QoL) của nam giới mắc xuất tinh sớm và rối loạn cương dương.

GIỚI THIỆU 

Hiện nay, xuất tinh sớm (Premature Ejaculation - PE) và rối loạn cương dương (Erectile Dysfunction - ED) ảnh hưởng đáng kể đến nhiều nam giới trên toàn cầu. Trong đó, tỷ lệ xuất tinh sớm ước tính khoảng 22 – 38% trong tất cả các nhóm tuổi và là tình trạng rối loạn tình dục ở nam phổ biến nhất. Xuất tinh sớm được định nghĩa là tình trạng xuất tinh xảy ra sớm hơn sự mong muốn của bản thân, ngay sau khi dương vật thâm nhập vào âm đạo và có sự kéo dài dai dẳng, lặp lại suốt đời. Các bác sĩ lâm sàng cần phải tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian kéo dài giai đoạn hưng phấn, chẳng hạn như tuổi tác, điều mới lạ từ bạn tình hoặc từ sự kích thích và tần suất quan hệ tình dục. Những nguyên nhân hỗn hợp đã gây ra rối loạn tâm lý và khó khăn của cá thể khi quan hệ tình dục. 

Người ta ước tính có khoảng 19 – 25% nam giới ở Mỹ, Đức, Ý và Anh và 12 – 13% ở Pháp và Tây Ban Nha có rối loạn cương dương. Trong nghiên cứu về lão hóa nam giới ở Massachusetts, có đến 52% nam giới cho biết họ bị rối loạn cương dương dù ở một mức độ nào đó, với xác suất xuất tinh sớm hoàn toàn tăng gấp 3 lần từ 5% đến 15% trong độ tuổi 40 - 70. Rối loạn cương dương được đặc trưng bởi tình trạng không có khả năng duy trì sự cương cứng đủ để quan hệ tình dục hoặc không có khả năng xuất tinh, hoặc cả hai. Một cuộc khảo sát trên diện rộng với hơn 3500 đàn ông bị rối loạn cương dương đã cho thấy rằng chất lượng và khả năng cương cứng là thuộc tính chính được cố gắng tìm hiểu trong điều trị rối loạn cương dương. 

Sự thõa mãn trong đời sống tình dục là một yếu tố tiên lượng quan trọng cho sự hài lòng trong cuộc sống, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi chất lượng cuộc sống (QoL) giảm ở nam giới mắc rối loạn chức năng tình dục. Sự hiện diện của rối loạn cương dương có thể làm gia tăng  thêm sự suy giảm chất lượng cuộc sống ở nam giới mắc các bệnh lý đi kèm. Đã có báo cáo cho thấy sự tự tin và chất lượng cuộc sống của nam giới đã điều trị rối loạn cương dương được cải thiện về sức khỏe - tinh thần và xã hội. Xuất tinh sớm có mối liên hệ với sự gia tăng lo âu và trầm cảm, cảm giác thất vọng, tức giận và mất sự tự tin trong tình dục.

Đối tác của nam giới có mắc rối loạn cương dương hoặc xuất tinh sớm cũng sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi những tình trạng này. Trong một cuộc khảo sát tại Thụy Điển, những phụ nữ có bạn tình là người mắc rối loạn cương dương có biểu hiện của rối loạn chức năng tình dục thường xuyên hơn so với những phụ nữ có bạn tình không mắc. Đã có báo cáo cho thấy khả năng gia tăng các vấn đề hôn nhân của các cặp vợ chồng mà người chồng có mắc xuất tinh sớm, phụ nữ thường có cảm giác tức giận, thất vọng, không được thỏa mãn tình dục và cảm giác cô đơn sau khi quan hệ tình dục với bạn tình.

Các phương pháp đánh giá tổng quát chất lượng cuộc sống (QoL), tức là khảo sát chung về sức khỏe và cảm giác hạnh phúc có thể không đủ độ nhạy với những thay đổi về chức năng tình dục. Quan điểm hiện nay cho rằng, khi đánh giá chức năng tình dục, trọng tâm chất lượng cuộc sống phải là các khía cạnh của một rối loạn cụ thể. Do đó, cần một thang đo có thể nắm bắt được tác động của tình trạng rối loạn cương dương và xuất tinh sớm lên chất lượng cuộc sống của nam giới. Trong khi một số thang đo chất lượng cuộc sống dành riêng cho từng bệnh đã được phát triển thì bộ câu hỏi có thể sử dụng cho nhiều trường hợp rối loạn chức năng tình dục sẽ không chỉ đánh giá tác động của một rối loạn chức năng cụ thể mà còn cho phép so sánh các tác động tương đối của những rối loạn chức năng đó lên chất lượng cuộc sống.

Bộ câu hỏi về chất lượng cuộc sống tình dục nam giới (SQoL-M) là phiên bản sửa đổi từ bộ câu hỏi chất lượng cuộc sống tình dục nữ (SQoL-F), được sử dụng cho đối tượng nam giới có rối loạn chức năng tình dục. Bộ câu hỏi sau khi sửa đổi đã được chứng minh có những đặc tính đo lường tâm lý tốt. Các cuộc thảo luận với chuyên gia, đánh giá tài liệu và phỏng vấn với bệnh nhân mắc rối loạn cương dương hoặc xuất tinh sớm cho thấy rằng: các mục của bộ câu hỏi chất lượng cuộc sống tình dục nữ (SQoL-F) cũng có thể áp dụng cho nam giới, chỉ cần thay đổi nhỏ ở Câu 4: khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy bản thân không nam tính.

MỤC TIÊU

            Để tiến hành thẩm định thang đo tâm lý về chất lượng cuộc sống tình dục phiên bản nam giới, sử dụng dữ liệu thu thập được từ những người đàn ông rối loạn cương dương hoặc xuất tinh sớm. 

GIAI ĐOẠN 1 - PHÂN TÍCH YẾU TỐ

Để tìm ra các câu hỏi dư thừa, phiên bản gồm 18 câu hỏi về chất lượng cuộc sống tình dục nam được sử dụng vào 2 nghiên cứu lâm sàng về rối loạn chức năng tình dục nam và tiến hành phân tích các yếu tố dựa trên dữ liệu thu thập được từ những nam giới bị rối loạn cương dương hoặc xuất tinh sớm.

Phương pháp nghiên cứu

Quần thể nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu sẽ tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng - giả dược về tình trạng xuất tinh sớm. Xuất tinh sớm được xác định là có thời gian trì hoãn xuất tinh trong âm đạo dưới hoặc bằng 2 phút trong ít nhất 75% số lần quan hệ tình dục; N = 149; tuổi trung bình là 42,1 ± 10,05 tuổi. SQoL-M được sử dụng khi sàng lọc, làm cơ sở bắt đầu và kết thúc quá trình điều trị. 

Những người đàn ông tham gia vào thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về tình trạng rối loạn cương dương với chỉ số Quốc tế về chức năng cương dương (IIEF) lớn hơn 21 điểm cho thấy có vấn đề trong việc đạt được và duy trì sự cương cứng khi quan hệ tình dục; N = 338 với tuổi trung bình là 52,6 ± 9,05 tuổi. SQoL-M được sử dụng khi sàng lọc, bắt đầu và kết thúc quá trình điều trị. 

Tất cả đối tượng tham gia nghiên cứu khi tiến hành khảo sát được giám sát bởi điều tra viên tại các địa điểm thăm khám lâm sàng, sử dụng quy trình chuẩn để lựa chọn ngẫu nhiên.

Các phương pháp chính

Chúng tôi đã tiến hành phân tích các yếu tố, sử dụng phương pháp ước lượng hợp lý tối đa và ước lượng trung bình tổng thể cho mỗi biến số bằng bội số tương quan bình phương với các yếu tố khác, để tìm cách sắp xếp các lĩnh vực của bộ câu hỏi và xác định những mục nào nên được giữ lại. Các tiêu chí ưu tiên cho việc nhận biết, đặt tên lĩnh vực và giữ lại các mục câu hỏi:

  • Trị số Eigen > 1,0.
  • Các mục có hệ số tải Factor loading > 0,4.
  • Hệ số tương quan biến - tổng Pearson r > 0,3.

Bất kỳ câu hỏi nào có hệ số tải Factor loanding < 0,4 hoặc không rõ ràng cần được xem xét lại để loại trừ. Ước lượng độ tin cậy để tìm hiểu tính nhất quán bên trong. Vì giải pháp tự nguyện cho các tập dữ liệu kết hợp hoặc riêng lẻ dẫn đến một số yếu tố không hợp lý, các giải pháp bắt buộc cũng được khảo sát. Các giải pháp này tương tự với rối loạn cương dương và xuất tinh sớm, và kết hợp dữ liệu của 2 rối loạn chức năng tình dục này, vì vậy chỉ có kết quả từ dữ liệu kết hợp (N = 487) được trình bày.

Kết quả 

            Các phân tích đầu tiên chỉ ra rằng SQoL-M có 2 lĩnh vực cơ bản, với 4 miền không rõ ràng. Các yếu tố được phân tích lại sau khi loại bỏ các mục câu hỏi không rõ ràng, kết quả cho thấy giải pháp 2 yếu tố với hệ số tải của tất cả mục hỏi đều lớn hơn 0,4. Mười một mục hỏi được khai thác rõ ràng tập trung vào yếu tố “cảm xúc hạnh phúc” và 3 mục hỏi về yếu tố thứ 2 “sự thân mật của đối tác”. Chỉ số đồng nhất đối với “cảm xúc hạnh phúc” là 0,89 với tất cả các hệ số tương quan biến- tổng > 0,5. Độ tin cậy bên trong của nhân tố thứ 2 “sự thân mật của đối tác” chỉ 0,53 nên không đạt được độ tin cậy tối thiểu là 0,7. Hệ số tương quan biến -tổng của nhân tố thứ 2 cũng thấp (< 0,5). Kết quả là những mục hỏi này được loại bỏ và bộ câu hỏi về chất lượng cuộc sống tình dục nam (SQoL-M) cuối cùng gồm 11 mục hỏi.

Bảng 1: Hệ số tải Factor loading của mỗi mục hỏi trong SQoL-M

Mục câu hỏi

Hệ số tải 

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy THẤT VỌNG

0,67

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy CHÁN NẢN

0,72

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy THIẾU NAM TÍNH

0,66

Tôi đã MẤT TỰ TIN vào bản thân với tư cách là người bạn tình

0,67

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy LO LẮNG

0,64

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy TỨC GIẬN

0,62

Tôi cảm thấy LO LẮNG về hoạt động tình dục của mình trong tương lai

0,66

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy XẤU HỔ

0,66

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy TỘI LỖI

0,56

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi lo lắng rằng ĐỐI TÁC của mình cảm thấy bị TỔN THƯƠNG hoặc đang BỊ TỪ CHỐI

0,59

Khi tôi nghĩ về cuộc sống tình dục của mình, tôi cảm thấy như đang MẤT MÁT một thứ gì đó

0,68

 

GIAI ĐOẠN 2 - ĐO LƯỜNG TÂM LÝ BAN ĐẦU

            Bộ câu hỏi gồm 11 mục hỏi đã được thẩm định bằng cách sử dùng một nhóm thuần tập nam giới mắc rối loạn cương dương, xuất tinh sớm và nam giới không mắc rối loạn chức năng tình dục.

Phương pháp nghiên cứu

            Quẩn thể nghiên cứu

            Nhóm A: Hai bộ dữ liệu nghiên cứu lâm sàng về nam giới mắc xuất tinh sớm hoặc rối loạn cương dương được sử dụng để phân tích yếu tố cũng được dùng để đánh giá tính nhất quán, giá trị hội tụ và phân biệt của nhóm đã biết.

            Nhóm B: Dữ liệu từ một nghiên cứu hệ thống thực hiện trên 104 nam giới mắc xuất tinh sớm (tuổi trung bình là 41,9 ± 14,6 tuổi), 101 nam giới mắc rối loạn cương dương (tuổi trung bình 54,9 ± 16,4 tuổi) và 101 nam giới không mắc các vấn đề chức năng tình dục (tuổi trung bình 34,8 ± 10,8 tuổi) để đánh giá tính nhất quán và giá trị của nhóm. Ngoài ra, độ tin cậy test-retest cũng được đánh giá.

            Quy trình nghiên cứu

Nhóm A: Ngoài SQoL-M, những người đàn ông mắc xuất tinh sớm trong thử nghiệm hoàn thành bộ câu hỏi về chỉ số xuất tinh sớm (IPE) và những người đàn ông mắc rối loạn cương dương cũng hoàn thành bộ câu hỏi về Chỉ số quốc tế chức năng cương dương (IIEF). Hoàn thành các câu hỏi khi bắt đầu và kết thúc điều trị.

Nhóm B: Sau khi được chấp thuận bởi Hội đồng y đức, những người tham gia nghiên cứu được xác định qua Trung tâm Y tế tại Virginia Mason và thông qua chương trình quảng cáo tại địa phương. Tất cả đối tượng nghiên cứu được gửi về bảng các câu hỏi, bao gồm SQoL-M và giấy chấp thuận tham gia nghiên cứu và hoàn thành trong vòng 7 ngày. Việc khảo sát lại được tiến hành 7-10 ngày sau khi thang đo cơ bản được hoàn thành cùng với đánh giá toàn cầu về những thay đổi của bộ câu hỏi. 

Các phương pháp chính

Chúng tôi đã sử dụng 2 phương pháp để kiểm định độ tin cậy của bộ câu hỏi SQoL-M 

+ Tính nhất quán (Internal Consistency)

Các giá trị này cho biết mức độ đáng tin cậy của các câu hỏi của một lĩnh vực trong việc đo lường một lĩnh vực nhất định. Chúng tôi đã sử dụng hệ số tương quan Cronbach’s alpha, với điểm số tối thiểu là 0,7.

+ Độ tin cậy test-retest

Đây là phương thức kiểm tra chính về độ tin cậy. Trong trường hợp không có bất kỳ thay đổi nào trong nhóm hoàn thành bảng câu hỏi, được đánh giá bởi xếp hạng toàn cầu về bảng câu hỏi thay đổi, điểm trung bình phải nhất quán theo thời gian. Tính toán hệ số tương quan Intraclass (ICC) và điểm từ 0,7 trở lên được xem là một dấu hiệu tốt về độ tin cậy test-retest.

Chúng tôi đã phân tích giá trị hội tụ và giá trị phân biệt để chứng minh rằng bộ câu hỏi đã đo lường nhưng gì mà nó được thiết kể.

+ Giá trị hội tụ 

Điều này đánh giá mức độ bền vững của mối quan hệ giữa bộ câu hỏi và các phép đo liên quan khác. Mối tương quan giữa 0,5 và 0,7 thể hiện giá trị hội tụ rất tốt.

 

 

 

Bảng 2: Tính nhất quán nội bộ và hệ số tương quan Intraclass (ICC)

 

Tính nhất quán 

Hệ số tương quanIntraclass (ICC)

Nhóm bệnh nhân

N

Cronbach’s

alpha

N

ICC

Xuất tinh sớm (nhóm A)

149

0,93

104

0,79

Rối loạn cương dương (nhóm A)

338

0,87

101

0,77

Kết hợp XTS và RLCD (nhóm B)

205

0,89

205

0,79

Nam giới bình thường (nhóm B)

101

0,82

101

0,90

 

+ Giá trị phân biệt

Nếu hai nhóm đã biết khác nhau về một điều kiện nhất định, thì sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm số sẽ được thể hiện qua bộ câu hỏi cung cấp thông tin về tình trạng đó. Chúng tôi tiến hành so sánh điểm số giữa nam giới có PE hoặc ED và nam giới không mắc rối loạn chức năng tình dục.

Kết quả

+ Tính nhất quán 

Như kết quả được trình bày ở Bảng 2, tính nhất quán của bộ câu hỏi SQoL-M là tốt. Tất cả các nhóm bệnh nhân từ nhóm A và nhóm B có giá trị phân biệt > 0,7 so với tiêu chuẩn.

+ Độ tin cậy Test-retest

Như kết quả được trình bày ở Bảng 2, tất cả các nhóm đều vượt trên mức ICC tối thiểu chấp nhận được là 0,7, là ngưỡng cho thấy độ tin cậy test-retest cao.

+ Giá trị hội tụ

Đối với nam giới mắc xuất tinh sớm từ nhóm A, SQoL-M được dự đoán là tương quan với giá trị tổng thể của chỉ số rối loạn cương dương (IIEF). Hai câu hỏi được thực hiện đồng thời trong buổi khám sàng lọc. Hệ số tương quan Pearson với giá trị chung của IIEF đạt trên mức tiêu chuẩn > 0,4 (0,41). 

Đối với nam giới mắc xuất tinh sớm từ nhóm A, SQoL-M  được dự đoán là tương quan với mức độ hài lòng và không hài lòng của IPE. Hai bộ câu hỏi được thực hiện đồng thời trong buổi khám ban đầu. Trong nhóm xuất tinh sớm (N = 149), các mối tương quan giữa SQoL-M với các giá trị và rủi ro của IPE đáp ứng các tiêu chí về giá trị hội tụ > 0,4.

+ Giá trị phân biệt

Khả năng phân biệt giữa các nhóm đã biết được xác định bằng cách sử dụng kiểm định mẫu độc lập t-test để so sánh điểm số SQoL-M của nam giới mắc xuất tinh sớm và nam giới mắc rối loạn cương dương (thuộc nhóm A) với những người đàn ông không bị rối loạn chức năng tình dục thuộc nhóm B. Sự khác biệt rõ ràng và có ý nghĩa đã được tìm thấy giữa nhóm nam giới không rối loạn tình dục so với mỗi nhóm bệnh nhân và so với dữ liệu tổng hợp của nam giới mắc rối loạn chức năng tình dục (P = 0,0001), cung cấp bằng chứng về giá trị phân biệt (Bảng 3).

Bảng 3: Giá trị phân tán của SQoL-M ở các nhóm bệnh nhân khác nhau.

Nhóm bệnh nhân

N

Trung bình

Độ lệch chuẩn

T value*

P value

ED†

338

43,48

21,52

-24,28

0,0001

Bình thường‡

101

87,13

13,72

PE†

149

44,89

23,40

-17,95

0,0001

Bình thường‡

101

87,13

13,72

ED† + PE†

487

43,91

22,09

-25,53

0,0001

Bình thường‡

101

87,13

13,72

*Tương đương không giả định

†Nhóm A; ‡ Nhóm B.

PE = xuất tinh sớm; 

ED = rối loạn cương dương; 

SQoL-M = Chất lượng cuộc sống tình dục (nam).

 

GIAI ĐOẠN 3: THỬ NGHIỆM ĐÁNH GIÁ TÂM LÝ ĐỂ XÁC NHẬN NAM GIỚI CÓ XUẤT TINH SỚM

Các trắc nghiệm đo lường tâm lý của SQoL-M được tiến hành ở các nhóm nam giới khác chỉ mắc xuất tinh sớm.

Phương pháp nghiên cứu

+ Quần thể nghiên cứu

Nhóm 1: Dữ liệu sàng lọc từ 808 nam giới với tuổi trung bình là 41,1 và được phân ngẫu nhiên vào 2 nghiên cứu lâm sàng về xuất tinh sớm, với điểm số IELT dưới hoặc bằng 2 phút trong 70% số lần quan hệ tình dục, được sử dụng cho các phân tích đo lườmg tâm lý khác nhau (không bao gồm độ tin cậy test- retest và giá trị phân biệt, được đánh giá trong nhóm 2 và nhóm 3 bên dưới).

Nhóm 2: Độ tin cậy test – retest được đánh giá trong một quần thể nam giới tham gia trong lần thử nghiệm thứ ba về xuất tinh sớm (tuổi trung bình là 42,5), với điểm IELT dưới hoặc bằng 2 phút trong 70% số lần quan hệ tình dục. Những người đàn ông cho biết, tình trạng xuất tinh sớm không thay đổi từ giữa lúc sàng lọc và lúc bắt đầu điều trị (N = 118). Điều này đã được kiểm tra lại sau khoảng thời gian 4 tuần để đánh giá độ tin cậy test – retest.

Nhóm 3: Giá trị phân biệt được đánh giá bằng việc so sánh giữa nhóm gồm 60 nam giới mắc xuất tinh sớm (tuổi trung bình là 36,8) và nhóm gồm 32 nam giới không mắc (tuổi trung bình là 38,9 tuổi), được thực hiện bởi một chuyên gia lâm sàng. Nghiên cứu phương pháp luận để phát triển và hợp thức hóa một bộ công cụ chẩn đoán xuất tinh sớm mới.

+ Quy trình nghiên cứu

Nam giới trong Nhóm 1 và 2 được xác nhận để sàng lọc và tham gia vào ba thử nghiệm lâm sàng tại các phòng khám ở Hoa Kỳ, châu Âu, Úc và Canada. Tất cả nam giới được yêu cầu hoàn thành bộ câu hỏi về SQoL-M ở các lần sàng lọc, khám ban đầu, và các lần theo dõi khác nhau. Đối với Nhóm 3, sau khi IRB phê duyệt, những người đàn ông mắc và không mắc xuất tinh sớm được xác định qua tuyên truyền cộng đồng và sàng lọc qua điện thoại. Tất cả nam giới đến khám tại một địa điểm ở New York hoặc Chicago để hoàn thành SQoL-M cùng nhau bằng nhiều phương pháp đo lường khác, trước khi được một chuyên gia lâm sàng phỏng vấn để chẩn đoán xuất tinh sớm.

 

Kết quả chính

Tính nhất quán, giá trị hội tụ và phân biệt, độ tin cậy test–retest, hiệu lực của các nhóm đã biết được đánh giá ở nam giới mắc xuất tinh sớm.

 

Kết quả

Tính nhất quán rất tốt với hệ số tin cậy alpha ở mức 0,92. Về giá trị hội tụ như đã dự đoán trước đây, SQOL-M tương quan với các miền của IPE về mức độ hài lòng (0,59) và không hài lòng (0,50). Độ tin cậy test-retest được xác định với ICC ở mức 0,82 đối với 118 người đàn ông trong nhóm 2 và báo cáo cho thấy không có sự thay đổi nào từ lúc sàng lọc và lúc bắt đầu điều trị. Giá trị phân biệt cũng khá tốt. Điểm SQoL-M trung bình ở nam giới mắc bệnh trong Nhóm 3 (N = 60) là 34,83 ± 22,46 so với nhóm không mắc (N = 32) là 80,13 ± 18,72.

 

BÀN LUẬN

Chất lượng cuộc sống (QoL) đã trở thành điểm quan trọng trong quá trình nghiên cứu lâm sàng về rối loạn chức năng tình dục. Ngoài ra, các thang đo QoL đóng một vai trò quan trọng trong việc điều trị của các bác sĩ lâm sàng. Mặc dù có một số thang đo đặc biệt dành riêng cho rối loạn cương dương, chẳng hạn như bộ câu hỏi về Chất lượng cuộc sống tình dục SLQQ, thang đo SEAR và thang đo Rối loạn cương dương - Ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (ED- EQoL). SQOL-M đặc trưng ở chỗ nó giải quyết các mối quan tâm về chất lượng cuộc sống của cả nhóm mắc xuất tinh sớm và rối loạn cương dương. Do đó, ngoài ưu điểm đánh giá tác động của một rối loạn chức năng tình dục cụ thể, nó có thể so sánh tương đối những rối loạn chức năng này lên QoL.

Từ Bảng 3, rõ ràng là xuất tinh sớm và rối loạn cương dương có tác động mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống tình dục và tương tự ở hai nội dung. Nam giới tham gia thử nghiệm lâm sàng về rối loạn cương dương có điểm trung bình  là 43,48 ± 21,52 và xuất tinh sớm có điểm trung bình là 44,89 ± 23,40. Điểm trung bình của nam giới có xuất tinh sớm trong một nghiên cứu phương pháp luận (N = 60) là 34,83 ± 22,46, hơi thấp hơn so với nhóm thử nghiệm lâm sàng. So sánh điểm số QoL được công bố cho thấy đối với phụ nữ mắc rối loạn chức năng tình dục (female sexual dysfunction - FSD), xuất tinh sớm và rối loạn cương dương có tác động đến QoL tình dục cao hơn. Ở những phụ nữ mắc rối loạn chức năng tình dục, điểm số SQoL của phụ nữ không mắc bệnh lý kèm theo là 59,0 và phụ nữ bị tổn thương tủy sống là 62,7. Sự chênh lệch này có thể là do phụ nữ đánh giá về các khía cạnh của trải nghiệm tình dục cao hơn, chẳng hạn như sự thân mật và gần gũi của bạn đời và điều này có tác dụng bù đắp ở một mức độ nào đó cho các vấn đề về chức năng tình dục. Đúng như dự đoán, nam giới và phụ nữ không bị rối loạn chức năng tình dục có điểm số SQoL trung bình cao hơn: lần lượt là 87,13 và 90,1. 

SQoL-M có ít hơn bảy mục câu hỏi so với thang đo SQOL-F ban đầu. Những mục câu hỏi đã bị loại bỏ trong SQoL-M là: hai câu hỏi về mối quan hệ; một câu liên quan đến cảm xúc hạnh phúc (emotional well-being); ba câu liên quan đến tần suất và việc kiêng quan hệ tình dục; và một câu về sự thỏa mãn chung. Mặc dù những khía cạnh này có thể được đánh giá tốt hơn ở phụ nữ, nhưng chúng lại không hiệu quả đối với nam giới. Ví dụ: các câu hỏi về kết nối cảm xúc liên quan đến quan hệ tình dục với bạn tình (“khi tôi nghĩ về đời sống tình dục của mình, tôi cảm thấy gần gũi với bạn đời”) có thể không gây được sức ảnh hưởng với nam giới giống như cách đối với phụ nữ. Tương tự, các câu hỏi liên quan đến việc kiêng quan hệ và tần suất hoạt động tình dục thấp vì rối loạn chức năng tình dục có thể liên quan đến rối loạn chức năng tình dục ở nữ giới hơn là ở nam giới.

Phân tích các yếu tố được thực hiện bằng cách sử dụng bộ dữ liệu về nam giới mắc xuất tinh sớm hoặc rối loạn cương dương cho thấy 11 mục câu hỏi còn lại có liên quan nhiều nhất, được đánh giá qua hệ số Cronbach's alpha, giá trị phân biệt và độ  tin cậy test-retest rất cao, giá trị hội tụ cũng tốt.

Hiệu lực đo lường tâm lý của SQoL-M đã được xác định ở các quần thể nam giới khác có xuất tinh sớm và các nghiên cứu đang được tiến hành thêm để thẩm định bộ câu hỏi được sử dụng cho nam giới mắc rối loạn cương dương. Việc bổ sung độ nhạy cho bộ câu hỏi cũng đang được thực hiện nhằm điều chỉnh và xác định những thay đổi có ý nghĩa. Cả hai phương pháp tiếp cận dựa trên tính liên kết và tính phân bố đều được khuyến nghị như là các phương pháp xác định khái niệm của sự thay đổi nhỏ quan trọng trong đánh giá chất lượng cuộc sống tình dục nam giới.

KẾT LUẬN

Hiệu lực đo lường tâm lý của bộ câu hỏi SQOL- M với 11 mục câu hỏi đã được xác định cho nam giới mắc xuất tinh sớm và rối loạn cương dương. Chúng tôi dự đoán rằng nó sẽ là một công cụ có giá trị để đánh giá QoL tình dục ở nam giới có rối loạn chức năng tình dục, như là một phần bổ trợ cho việc khảo sát nhiều khía cạnh về mặt thể chất hơn trong nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng. Thực tế, bộ câu hỏi tương đối ngắn này là một lợi thế, vì điều quan trọng là đã giảm đi gánh nặng cho bệnh nhân khi tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng.

 


CÁC THÔNG TIN CÙNG CHỦ ĐỀ





TRUNG TÂM NỘI TIẾT SINH SẢN VÀ VÔ SINH

Bệnh viện Trường Đại học Y-Dược Huế
41 Nguyễn Huệ, TP Huế, Việt nam
0234.626.9696
0989.228.779
yhocsinhsan.hue@gmail.com

KẾT NỐI VỚI CHÚNG TÔI