1. Khái niệm
Xu hướng tính dục (hay còn gọi là thiên hướng tính dục) là khái niệm đề cập tới sự hấp dẫn lâu dài, bền vững về thể chất, cảm xúc lãng mạn, hoặc tình cảm, tình dục của một người với một giới bất kỳ. Nó khác với 3 cấu thành khác của tính dục bao gồm giới tính sinh học (cơ quan sinh dục), bản dạng giới (cảm nhận tâm lý mình là nam hay nữ), và vai trò giới (sự tham gia vào quan niệm xã hội về hành vi nam tính hay nữ tính). Xu hướng tính dục không giống với hành vi tình dục bởi vì nó đề cập tới cả cảm nhận và quan niệm cá nhân. Từng cá nhân có thể thể hiện xu hướng tính dục của mình thông qua hành vi tình dục của họ và cũng có thể không.
Hình 1. Xu hướng tính dục là một trong 4 thành tố quan trọng tạo nên tính dục
Quá trình hình thành nên xu hướng tính dục vẫn chưa được làm rõ, Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ (APA) cho rằng xu hướng tính dục là kết quả của sự tác động qua lại giữa các yếu tố di truyền, nội tiết tố và sự ảnh hưởng từ môi trường gia đình, văn hoá - xã hội được hình thành từ khi còn nhỏ.
2. Một số xu hướng tính dục phổ biến
Ngày nay, định nghĩa giới tính không chỉ dừng lại ở nam hay nữ giới mà còn có rất nhiều khái niệm khác nhau về giới tính của một người, theo đó, các xu hướng tính dục cũng trở nên phong phú, đa dạng. Cụm từ LGBT là viết tắt của các thuật ngữ về giới, bao gồm Lesbian, Gay, Bisexual và Transgender đã bắt đầu được công nhận và sử dụng rộng rãi từ những năm 1990.
Một số xu hướng tính dục thường gặp:
- Dị tính (Straight/ Heterosexual) là nhóm người bị hấp dẫn bởi những người khác giới, đây là xu hướng chiếm đa số trong phổ tính dục. Các dạng xu hướng tính dục còn lại được xếp vào nhóm thiểu số, chiếm 5 – 10% dân số toàn cầu.
- Đồng tính nữ (Lesbian) là những phụ nữ có cảm xúc và ham muốn với người cùng giới nữ. Lesbian lại được chia thành nhiều dạng như Fem (người đồng tính nữ có xu hướng là “phái yếu” trong mối quan hệ Les – Les, vẫn sở hữu những đặc điểm quyến rũ của phái đẹp), Butch (người nữ chủ động trong mối quan hệ và có phong cách giống đàn ông), Soft Butch (ngoại hình lịch lãm, nam tính nhưng tâm hồn dịu dàng, yếu đuối, không cố gắng loại bỏ tính nữ của mình).
- Đồng tính nam (Gay) là nam giới và bị thu hút bởi một nam giới khác. Trong mỗi cặp đôi đồng tính nam, người đóng vai trò chủ động, cầm cương trong mối quan hệ, thể hiện tính nam nhiều hơn được gọi là Top và ngược lại, người thể hiện cá tính mềm mại, đóng vai trò “người vợ” thường được gọi là Bot (Bottom).
- Song tính hay lưỡng tính (Bisexual) là những người có xu hướng tình dục với cả hai giới bao gồm lưỡng tính thật (cơ thể tồn tại song song cơ quan sinh dục chính và phụ như buồng trứng và tinh hoàn, âm vật và dương vật không rõ ràng) và lưỡng tính giả (cơ thể vẫn là người nam hoặc nữ hoàn chỉnh).
- Người chuyển giới (Transgender) chỉ những người có bản dạng giới trái ngược với cơ thể sinh học của họ. Ví dụ, một người sinh ra có giới tính sinh học là nam nhưng lại cho rằng mình là nữ, khi đó họ sẽ có suy nghĩ và hành động như một người nữ, đồng thời, họ khao khát tìm lại dáng hình phù hợp với bản dạng giới của họ, thúc đẩy phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Xu hướng tình dục Transgender cũng được chia làm hai loại phổ biến là Transexual (những người chưa qua phẫu thuật chuyển đổi giới tính) và Transgender (những người đã thực hiện phẫu thuật chuyển giới).
3. Các xu hướng tình dục ít gặp khác
Hiện nay, với sự phát triển của các ngành khoa học giới tính, khoa học tâm lý, đã có nhiều nghiên cứu chứng minh sự đa dạng xu hướng tính dục ngoài 4 nhóm kể trên. Vì vậy, cụm từ LGBT đã mở rộng thành LGBT+, trong đó dấu “+” đại diện cho các nhóm xu hướng tính dục như:
- Vô tính (Asexual) là một trong các xu hướng tình dục đặc biệt bởi nhóm người này không có cảm xúc, tình cảm hay ham muốn tình dục với bất cứ giới tính nào nhưng trong một số trường hợp, người vô tính vẫn quan hệ tình dục hoặc kết hôn. Họ làm điều đó vì sở thích được chiều chuộng hay chỉ đơn giản là muốn thư giãn.
- Á tính (Demissexual) là nhóm người chỉ bị hấp dẫn về tình dục sau khi đã có tình cảm với một ai đó. Tình cảm này không nhất thiết là yêu mà có thể là tình bạn. Bản chất của xu hướng Á tính nằm ở mối quan hệ giữa 2 người chứ không quan tâm đến giới tính của người kia.
- Toàn tính (Pansexual) là những người bị thu hút vì sự lãng mạn hay ham muốn tình dục với một người khác mà không quan tâm giới tính. Khái niệm khuynh hướng tình dục Toàn tính dễ gây nhầm lẫn với người Song tính. Sự khác biệt là người Toàn tính có thể yêu một người bất kể giới tính nào, kể cả người chuyển giới.
- Questioning là cụm từ chỉ những người không chắc chắn về xu hướng tính dục của mình, đang khám phá hoặc đang muốn xác định giới tính của bản thân.
- Liên giới (Intersex) là cá thể mang trong mình những đặc điểm về nhiễm sắc thể, hormone giới tính hay bộ phận sinh dục, cơ quan sinh sản “không thuộc những tính trạng tiêu biểu của nam giới hay nữ giới”. Điều này có thể biểu hiện rõ ràng từ khi mới sinh, hay đến khi dậy thì mới bắt đầu phát triển và biểu hiện ra ngoài hoặc không rõ ràng. Có thể một số người cả đời không hề hay biết bản thân là người liên giới tính.
Hình 2. Biểu tượng của một số xu hướng tính dục thường gặp
3. Thang đo Kinsey
Thang đo Kinsey là kết quả nghiên cứu của nhà tình dục học Alfred Kinsey trên 10.000 người Mỹ dùng để xác định thiên hướng tính dục của một người dựa trên đánh giá về hành vi tình dục và sự hấp dẫn tình dục của người đó. Nhiều người cho rằng đồng tính và dị tính là hai nhóm riêng biệt, tách rời nhau toàn toàn và mỗi người chỉ có thể thuộc về một trong hai nhóm trên. Tuy nhiên, theo quan điểm của ông, xu hướng tính dục có thể biến thiên trong khoảng từ hoàn toàn dị tính luyến ái qua song tính luyến ái rồi đến hoàn toàn đồng tính luyến ái chứ không nhất thiết chỉ tồn tại một kiểu người với duy nhất một xu hướng tính dục. Thang gồm 7 mức, ngoài ra để bổ sung nó còn thêm một loại khác là X để chỉ người Vô tính (Asexual).
Mức |
Đánh giá |
0 |
Hoàn toàn thích quan hệ tình dục, tình cảm với người khác giới (hoàn toàn dị tính luyến ái) |
1 |
Chủ yếu dị tính luyến ái chỉ đôi khi đồng tính luyến ái |
2 |
Chủ yếu dị tính luyến ái đôi khi đồng tính luyến ái nhưng nhiều hơn |
3 |
Đồng đều giữa dị tính luyến ái và đồng tính luyến ái (song tính luyến ái) |
4 |
Chủ yếu đồng tính luyến ái đôi khi dị tính luyến ái nhưng nhiều hơn |
5 |
Chủ yếu đồng tính luyến ái chỉ đôi khi dị tính luyến ái |
6 |
Hoàn toàn thích quan hệ tình dục, tình cảm với người cùng giới (hoàn toàn đồng tính luyến ái) |
X |
Không có liên hệ hoặc đáp ứng với tình dục xã hội |
Bảng 1. Thang đo Kinsey
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng tính dục
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pedeatrics) khẳng định rằng "Xu hướng tính dục chỉ được quyết định bởi sự tổng hợp của kiểu gen, hormone và ảnh hưởng môi trường". Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu cũng liệt kê thêm các yếu tố sinh học như kiểu genvà sự hoạt động của một số hormone ở bào thai. Sigmund Freud và các nhà tâm lý học xác nhận rằng sự hình thành xu hướng tính dục do nhiều nhân tố trong đó có những điều trải qua khi còn nhỏ.
Xu hướng tính dục dường như không phải là "bẩm sinh bất biến" mà nó có thể thay đổi do tác động từ môi trường văn hóa - xã hội, phim ảnh, bạn bè... Các nghiên cứu về gen gần đây cho thấy những người đồng tính bẩm sinh chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, trong khi những người đồng tính do ảnh hưởng từ sự nuôi dạy, văn hóa - xã hội (phim ảnh, sách báo, bạn bè...) chiếm tỷ lệ đa số. Tương tự, năm 2019, một nghiên cứu với quy mô lớn phân tích gen của gần 500.000 người đã được công bố cho thấy yếu tố di truyền bẩm sinh chỉ đóng vai trò nhỏ (khoảng 8% - 25%), trong khi ảnh hưởng từ môi trường gia đình, văn hóa - xã hội (phim ảnh, sách báo, tuyên truyền, sự dạy dỗ và bạn bè) mới là nguyên nhân chính (chiếm 75% - 92%) trong việc hình thành đồng tính luyến ái. Các phong trào tuyên truyền ủng hộ LGBT tỏ ý lo ngại nghiên cứu này vì nó đã gián tiếp khẳng định rằng đồng tính/song tính luyến ái là một sự bất thường do ảnh hưởng từ xã hội.
4.1. Môi trường sống
Môi trường đô thị hóa, cuộc sống tình dục cởi mở, sống trong những tập thể chỉ có một giới tính sinh học như quân đội, nhà tù thì việc tự kích thích để giải tỏa ham muốn sẽ làm tăng tình dục đồng giới, nhưng khi có điều kiện sống với người khác giới thì hiện tượng này cũng nhanh chóng chấm dứt. Năm 1994, Edward Laumann's nghiên cứu về thực hành tình dục ở Hoa Kỳ cho thấy tỷ lệ người dân ở thành thị và thành phố có khuynh hướng tình dục đồng giới cao hơn ở nông thôn. Tuy nhiên, tác giả lưu ý rằng điều này có thể được thúc đẩy khi những người đồng tính di chuyển đến môi trường đô thị thuận lợi hơn, đem lại nhiều cơ hội hơn cho cộng đồng LGBT+ phát triển. Một nghiên cứu khác ở Đan Mạch cũng cho thấy tỉ lệ kết hôn đồng tính ở thủ đô cao hơn những người cùng độ tuổi ở vùng nông thôn. Khuôn mẫu tình dục của mỗi cá nhân là một sản phẩm của văn hóa xã hội và dường như vai trò của xã hội cũng kìm hãm những xu hướng tính dục ít gặp. Ở xã hội có xu hướng chấp nhận người đồng tính thì sẽ xuất hiện nhiều cá nhân có khuynh hướng đồng tính hơn.
4.2. Ảnh hưởng từ gia đình
Các bằng chứng cho thấy con trai trong những gia đình có người cha ít yêu thương, ít quan tâm và ít thân thiết vớingười mẹ hơn thì tỉ lệ đồng tính sẽ cao hơn. Theo một nghiên cứu đối với 275 sĩ quan trong quân đội Đài Loan, Shu và Lung nói rằng: “Sự ít bảo bọc của người cha và sự quan tâm của người mẹ là nhân tố chính hình thành sự đồng tính ở nam giới”.
Mặt khác khi nghiên cứu các cặp sinh đôi và con nuôi của các cặp đồng tính nữ, các nghiên cứu đã tìm thấy sự liên hệ về việc phát triển xu hướng tình dục của trẻ em theo chiều hướng tương tự như cha mẹ nuôi của chúng, có nghĩa là nếu cha mẹ nuôi là người đồng tính thì khả năng đứa trẻ có hành vi đồng tính sẽ tăng lên. Một nghiên cứu của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xác hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, tập trung vào 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn bởi người đồng tính nữ và 73 bởi người đồng tính nam. Kết quả cho thấy trong thời gian đầu đời, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường, nhưng về lâu dài, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) dường như khó có thể bù đắp hơn và con của họ khi bước vào tuổi thành niên có khả năng tỷ lệ quan hệ đồng tính cao hơn. Tuy nhiên điều này đã vấp phải nhiều ý kiến trái chiều bởi trên thực tế, có nhiều đứa trẻ thể hiện xu hướng tính dục khác biệt mặc dù được nuôi dưỡng trong những gia đình có bố mẹ dị tính.
4.3. Nội tiết tố
Tác động của nội tiết tố đến thai nhi là giả thuyết nhân quả có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xu hướng tình dục. Nói một cách dễ hiểu, não bộ của thai nhi đang phát triển bắt đầu ở trạng thái điển hình của "phụ nữ". Sự hiện diện của nhiễm sắc thể Y thúc đẩy sự phát triển của tinh hoàn, nơi giải phóng testosterone, hormone này kích hoạt thụ thể androgen để nam tính hóa thai nhi, đẩy thai nhi hướng tới các cấu trúc điển hình của nam giới và phần lớn là thu hút nữ giới. Người đồng tính nam có thể đã tiếp xúc với quá ít testosterone trong các vùng quan trọng của não, hoặc có mức độ tiếp nhận khác nhau đối với các tác động nam tính hóa của nó, hoặc trải qua biến động vào những thời điểm quan trọng. Ở phụ nữ, mức độ tiếp xúc cao với testosterone ở các vùng quan trọng có thể làm tăng khả năng bị hấp dẫn cùng giới. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu có sức ảnh hưởng lớn nào khẳng định về giả thuyết này, do vậy, nó vẫn đang là một vấn đề được các nhà nghiên cứu về giới tính quan tâm.
4.4. Thứ tự sinh anh em trong gia đình
Các phản ứng miễn dịch của người mẹ trong quá trình phát triển của thai nhi có thể là yếu tố gây ra đồng tính luyến ái nam và song tính luyến ái nam. Nghiên cứu từ những năm 1990 cho thấy người mẹ càng có nhiều con trai thì khả năng con trai sinh ra sau này là người đồng tính càng cao. Trong thời kỳ mang thai, các tế bào nam hoá xâm nhập vào máu của người mẹ như những tế bào lạ với hệ thống miễn dịch từ đó sinh ra kháng thể. Những kháng thể này sẽ tác động lên bào thai nam kế tiếp và có thể làm vô hiệu hóa các kháng nguyên liên kết Y có vai trò trong quá trình nam tính hóa não. Người mẹ càng có nhiều con trai thì sẽ càng tăng nồng độ của những kháng thể này, do đó tạo ra “hiệu ứng thứ tự sinh anh em”. Bằng chứng sinh hóa để hỗ trợ hiệu ứng này đã được xác nhận trong một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm vào năm 2017, cho thấy rằng những bà mẹ có con trai đồng tính, đặc biệt là những người có anh trai, có mức kháng thể đối với NLGN4Y Y-protein cao hơn những bà mẹ có con trai dị tính. J. Michael Bailey đã mô tả phản ứng miễn dịch của người mẹ là "nguyên nhân" của đồng tính luyến ái nam. Ảnh hưởng này được ước tính chiếm từ 15 - 29% nam giới đồng tính và có thể cao hơn khi tính vào các trường hợp sẩy thai của các bào thai nam. Vì vậy, xu hướng tính dụccũng bị ảnh hưởng bởi các cơ chế sinh học trước khi sinh. Hiệu ứng “thứ tự sinh anh em” là một ví dụ về ảnh hưởng không di truyền đến xu hướng tính dục nam xảy ra trong môi trường trước khi sinh. Không phải tất cả hoặc hầu hết con trai sẽ là đồng tính nam sau một vài lần mang thai nam, mà là tỷ lệ sinh con trai đồng tính tăng từ khoảng 2% đối với con trai đầu lòng, lên 3% đối với lần thứ hai, 5% cho con thứ ba (và trở nên mạnh hơn với mỗi thai nhi nam kế tiếp).
4.5. Di truyền
Các nhà khoa học khẳng định không có gen cụ thể nào quy định hay dự đoán xu hướng tính dục của một người. Để đưa ra kết luận này, các nhà khoa học thuộc Viện Y dược Phân tử Phần Lan đã phân tích mẫu DNA của 470.000 người cung cấp thông tin cho Ngân hàng sinh học Anh và công ty xét nghiệm gen 23andMeInc ở Mỹ và những trải nghiệm tính dục của họ để rút ra các kết luận về nhân tố thuộc sinh học tác động đến xu hướng tính dục, cụ thể là xu hướng tính dục đồng giới của con người. Kết quả cho thấy có hàng ngàn biến thể gen khác nhau liên quan hành vi tình dục đồng giới, trong đó 5 chuỗi gen được đánh giá là liên quan mật thiết nhất. Hai trong năm biến thể này xuất hiện ở cả nam giới lẫn nữ giới, hai biến thể tiếp theo đặc trưng ở nam giới và một biến thể còn lại đặc trưng cho nữ giới. Đây là nghiên cứu lớn nhất từ trướcđến nay về ảnh hưởng của gen lên xu hướng tính dục của cá nhân, kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science vào tháng 08 năm 2019. Ông Andrea Ganna, nhà sinh học thuộc Viện Y học phân tử tại Phần Lan, đồng chủ trì nghiên cứu, cho biết nhóm khoa học đã xem xét kỹ lưỡng toàn bộ bộ gen người để kiểm tra những nhân tố gen tác động tới xu hướng tính dục. Ông cho rằng có "một ảnh hưởng rất nhỏ" từ yếu tố này, "chưa đến 1%" trong các trường hợp tự thừa nhận có hành vi tình dục đồng giới. Điều này có nghĩa chính các nhân tố không di truyền như môi trường sống, gia đình, bạn bè, văn hóa,… mới gây tác động đáng kể hơn nhiều tới việc hình thành xu hướng tính dục của mỗi người. Ông đưa ra kết luận, xu hướng tính dục có thể chịu ảnh hưởng bởi gen nhưng không phải do gen quy định, do đó khó có thể dùng nghiên cứu di truyền để dự đoán xu hướng tính dục của một con người.
5. Xu hướng tính dục không phải là một lựa chọn
Trải qua nhiều thập kỷ, cộng đồng LGBT+ luôn mong muốn và khao khát được tôn trọng và không bị kỳ thị. Nhiều nước phát triển trên thế giới đã chấp nhận họ cũng như việc kết hôn đồng giới, tuy nhiên đây vẫn còn là một chủ đề nhạy cảm ở các nước phương Đông. Xã hội Việt Nam hiện nay mặc dù đã công nhận, có cái nhìn tích cực với cộng đồng LGBT+ nhưng đâu đó vẫn còn nhiều định kiến sai lầm, đặc biệt ở thế hệ trước. Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến luật pháp bảo vệ quyền LGBT+ ở nước ta cũng chưa được công nhận.
Hình 3. Lá cờ lục sắc biểu tượng cho cộng đồng LGBT+
Biểu tượng của cộng đồng LGBT+ là cờ lục sắc với 6 màu cụ thể là: đỏ, cam, vàng, lục, lam và tím. Những màu sắc này mang ý nghĩa là sự kết nối không biên giới, cho sự đa dạng của cộng đồng cũng như niềm hy vọng được sống với đúng bản chất của những LGBT+ trên toàn thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.C. Kinsey, W.B. Pomeroy, C.E. Martin, Sexual Behavior in the Human Male, (pp. 639, 656). Philadelphia, PA: W.B. Saunders, 1948). ISBN 0-253-33412-8.
2. Balthazart J (tháng 8 năm 2011). "Minireview: Nội tiết tố và xu hướng tình dục của con người". Khoa nội tiết. 152 (8): 2937–47.doi: 10.1210 / en.2011-0277. PMC 3138231. PMID 21693676
3. Balthazart J (tháng 1 năm 2018). "Thứ tự sinh của anh em ảnh hưởng đến xu hướng tình dục được giải thích". Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. 115 (2): 234–236. doi: 10.1073 / pnas.1719534115. PMC 5777082. PMID 29259109.
4. Blanchard R (tháng 1 năm 2018). "Thứ tự sinh trong anh em, quy mô gia đình và tình dục đồng giới nam: Phân tích tổng hợp các nghiên cứu kéo dài 25 năm". Kho lưu trữ về Hành vi Tình dục. 47 (1): 1–15. doi: 10.1007 / s10508-017-1007-4. PMID 28608293. S2CID 10517373.
5. Bailey JM (tháng 1 năm 2018). "Hiệu ứng thứ tự sinh của huynh đệ là mạnh mẽ và quan trọng". Kho lưu trữ về Hành vi Tình dục. 47 (1): 17–19. doi: 10.1007 / s10508-017-1115-1. PMID 29159754. S2CID 35597467.
6. No 'gay gene': Massive study homes in on genetic basis of human sexuality”. Tạp chí Nature (2019).
7. “Sexual Orientation & Homosexuality”. American Psychological Association. 2020
8. Vasey PL, Diamond L, Breedlove SM, Vilain E, Epprecht M (tháng 9 năm 2016). "Định hướng Tình dục, Tranh cãi và Khoa học". Khoa học Tâm lý vì Lợi ích Công cộng. 17 (2): 45–101. doi: 10.1177 / 1529100616637616. PMID 27113562. S2CID 42281410.
CÁC THÔNG TIN CÙNG CHỦ ĐỀ